Theo ông Đinh Thế Phúc, ngày 18/3/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 428/QĐ-TTg phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030. Với quy hoạch này, đến năm 2020, tổng công suất của các nhà máy điện phải đạt 60.000 MW, nghĩa là trong 5 năm 2016-2020, cần đưa vào thêm 21.650 MW. Theo ước tính, số tiền đầu tư cho các nhà máy điện trong giai đoạn này là gần 30 tỷ USD. Cộng với khoản đầu tư xây dựng các nhà máy điện, hệ thống lưới điện truyền tải nữa, số tiền cần đầu tư trong giai đoạn này lên tới 40 tỷ USD (tương ứng mỗi năm cần khoảng 8 tỷ USD). Với số tiền này khi làm Quy hoạch điện VII, các chuyên gia tính toán đủ để cung ứng điện trên toàn quốc.
Cần 8 tỷ USD/năm cho đầu tư sản xuất điện
TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam khẳng định, mỗi năm cần 6-8 tỷ USD đầu tư sản xuất điện là một con số rất lớn, nếu không kêu gọi được các nhà đầu tư (tư nhân, nước ngoài) thì rất khó khăn. “Nếu giá điện không được cải thiện thì không ai chịu đầu tư cả”. Theo TS Trần Đình Thiên, khi bàn đến điện thì chỉ nghĩ đến nguồn cung mà chưa nghĩ về phía cầu. Hiện nay, tiêu dùng điện ở Việt Nam vẫn chưa hiệu quả. Thiếu điện còn do người sử dụng điện chứ không chỉ do người làm ra điện. Có 2 nguyên nhân căn bản cần giải quyết: Thứ nhất là do tồn tại việc tiêu dùng quá nhiều năng lượng. Một nền công nghệ tiêu tốn năng lượng. Thực tế các nhà máy sản xuất xi măng, sắt thép… cho thấy rõ điều đó. Vì vậy, giải pháp căn cơ là làm sao để tiêu dùng năng lượng hiệu quả hơn. Tư duy đó phải là cơ bản. Phải giải quyết được bài toán căn cơ nhất đó là vấn đề tăng trưởng GDP/năng lượng. Tốc độ đô thị hóa cũng dẫn đến tiêu dùng năng lượng ngày càng lớn. Do vậy, cần tái cơ cấu để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung vào thay đổi công nghệ. Đảm bảo nguồn cung là việc của chiến lược năng luọng quốc gia gắn với TCC kinh tế hiệu quả.
Thứ 2 là đầu tư phải gắn với giá điện “phải có tính đến lợi ích tổng thể, bởi nếu không giải quyết được thì chính điểm này sẽ hạn chế đầu tư vào điện. Giá thấp thì khó khiến nhà đầu tư tham gia cuộc chơi này”.
Ông Franz Genner – Trưởng nhóm chuyên gia năng lượng, Ngân hàng thế giới (WB) khẳng định, WB đã hỗ trợ cho ngành điện Việt Nam nhiều năm. Dự kiến trước đây mỗi năm cần khoảng 5-6 tỷ USD vào phát triển điện. Việc huy động từ tư nhân rất khó. Trong quá khứ, nguồn đầu tư chủ yếu từ vốn ODA. Hiện nay nguồn vốn này ngày càng hạn chế. Việc cân đối của EVN hiện rất khó khăn (EVN hiện đang gặp các vấn đề về chênh lệch tỷ giá chẳng hạn). Về giải pháp, quan tọng đối với Việt Nma vẫn là từ phía cầu. “Giảm tiêu thụ năng lượng là giải pháp quan trọng để tránh việc phải đầu tư thêm nhiều nguồn năng lượng mới".
Liên quan đến việc vì sao QHĐ7 lại làm nhiều nhiệt điện than, liệu quy hoạch có vấn đề gì không ? Ông Franz Genner khẳng định: QH điện của Việt Nam không phải là nước kém so với các nước cùng trình độ phát triển. Theo dự báo, Việt Nam đã nhìn nhận được nguy cơ thiếu điện trong tương lai. Thách thức ở đây là nhu cầu điện cần tăng 10%/năm và cần tăng công suất điện, và phải phát triển thêm nguồn nhiệt điện. Thách thức nữa là các nhà máy nhiệt điện phải dựa vào nguồn than nhập khẩu, một vấn đề nữa là phát triển nguồn điện năng lượng mặt trời, điều này rất quan trọng để Chính phủ và nhà đầu tư. Nếu không phát triển điện mặt trời thì có nghĩa là cần thêm than. Và điều này lại quay lại vấn đề về giá điện, chi phí giá điện.
Với giá 7,6 cent/KWh hiện nay sẽ rất khó thu hút đầu tư vào giá điện. Ước tính giá điện 7,6 cent/KWh này chỉ đủ để đáp ứng chi phí vận hành, bảo trì của EVN. Nếu quan tâm tới biểu giá điện đầy đủ, tới năm 2030 phải tăng giá điện thêm 40%. Nếu không làm điều đó thì cần sự trợ giúp rất nhiều từ nhà tài trợ, doanh nghiệp. Nếu không sẽ không đủ tài chính cho đầu tư vào các dự án điện.