Nhiệt điện than: Nguồn cung cấp điện chính giai đoạn 2020 - 2030

Quy hoạch điện VII điều chỉnh được Chính phủ phê duyệt (Quyết định 428/QĐ-TTg ngày 18/3/2016) đã xác định Nhiệt điện than đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng.


Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
 
Cụ thể, theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2020 tổng công suất nhiệt điện than khoảng 26.000 MW chiếm 49,3% lượng điện sản xuất; năm 2025 đạt khoảng 47.600 MW, chiếm 55% điện sản xuất; năm 2030 đạt 55.300 MW chiếm 53,2% điện sản xuất.
 
Tại hội thảo “Công nghệ nhiệt điện than và môi trường” do Bộ Công Thương tổ chức ngày 5/11/2016 vừa qua, TS. Nguyễn Mạnh Hiến, nguyên Viện trưởng Viện năng lượng thông tin, nếu như năm 2010 tổng công suất nhiệt điện than mới chỉ chiếm 17,6% thì đến cuối năm 2015 Việt Nam đã có hơn 3.000 MW nhiệt điện than, chiếm 38,4%. Tốc độ tăng trưởng của nhiệt điện than từ năm 2000 - 2015 trung bình đạt 17%, sản xuất tới 80 tỷ kWh/năm. Theo tính toán, nhiệt điện than có thời gian và chi phí đầu tư hợp lý, quy trình vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa cũng dễ dàng hơn các nguồn điện như năng lượng tái tạo hay điện hạt nhân. Nhiệt điện than đặc biệt phù hợp với mô hình phát triển kinh tế của các quốc gia đang phát triển như ở Việt Nam. “Giảm tỷ lệ nhiệt điện than không hề đơn giản vì rất khó tìm nguồn thay thế, trong khi các dự án thủy điện vừa và lớn đã khai thác gần hết, nguồn khí tự nhiên khai thác cũng đã đến giới hạn và triển vọng nhập khí hóa lỏng sẽ diễn ra sau 2025”, TS. Nguyễn Mạnh Hiến quả quyết.
 
TS. Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật nhiệt Việt Nam cho rằng, xu hướng chung, các nước đều dùng nhiệt điện than để đáp ứng nhu cầu điện năng trong phát triển kinh tế sau khi đã khai thác triệt để các nguồn thủy điện (giá thành nhiệt điện than rẻ hơn, chỉ sau thủy điện, trung bình khoảng 7 cent/kWh). Trong khi đó, Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển mạnh về kinh tế cho nên nhu cầu điện năng rất cao. “Khi đất nước đã trở nên giàu có mới nghĩ đến phát triển các dạng năng lượng khác như năng lượng tái tạo và bắt đầu hạn chế dần phát triển nhiệt điện than. Nếu làm điện hạt nhân, Việt Nam cũng phải phụ thuộc hoàn toàn vào việc nhập khẩu các thanh nhiên liệu từ nước ngoài. Làm nhiệt điện than trong tương lai cũng sẽ phải nhập khẩu than, nhưng việc nhập khẩu than dễ dàng hơn nhiều, và việc xử lý các chất thải ra môi trường cũng đơn giản hơn”, TS. Trương Duy Nghĩa phân tích.
 
Cũng theo TS. Trương Duy Nghĩa, có 3 nguồn chất thải cơ bản của nhiệt điện than, đó là chất thải rắn, chất thải khí và chất thải lỏng. Các loại khí thải và chất thải lỏng hiện nay đã có công nghệ xử lý, vấn đề là vốn đầu tư.  Khó khăn lớn nhất của Việt Nam chính là việc xử lý chất thải rắn, tức là tro xỉ sau đốt than. Lượng tro xỉ lớn, trong khi quỹ đất có hạn. Làm sao để khai thác hiệu quả các chất thải rắn, lượng tro xỉ này làm nguyên liệu cho ngành vật liệu xây dựng như sản xuất xi măng, gạch không nung là vấn đề đặt ra, bởi nó thực sự là nguồn tài nguyên chứ không phải chất thải bỏ.
 
Đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, hiện nay tỷ lệ phát nhiệt điện than chiếm 34,37% trong hệ thống điện. Các nhà máy nhiệt điện đang chủ yếu sử dụng nguồn than sản xuất trong nước. Liên quan đến công nghệ các nhà máy nhiệt điện than do EVN đầu tư, quản lý vận hành có tác động thế nào đến môi trường, EVN khẳng định các nhà máy nhiệt điện than của EVN đều sử dụng hệ thống thiết bị lọc bụi bụi tĩnh điện hiệu suất cao. Quy trình xử lý bụi và khí thải là quy trình đầy đủ, phổ biến hiện nay của các nhà máy nhiệt điện đốt than trên thế giới. Hệ thống xử lý nước thải công nghiệp đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Nước làm mát tuần hoàn tại điểm đầu ra kênh thải luôn thấp hơn 40 độ C theo quy định. Phương thức thải xỉ khô được đánh giá là một trong những biện pháp tiết kiệm tài nguyên nước và năng lượng so với phương pháp thải xỉ ướt và là một giải pháp để thúc đẩy quá trình tái sử dụng tro, xỉ.
 
Nhằm giảm thiểu các tác động đến môi trường của các nhà máy nhiệt điện, TS. Nguyễn Mạnh Hiến - nguyên Viện trưởng Viện năng lượng Việt Nam khuyến cáo các nhà máy nên sử dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại (công nghệ siêu tới hạn) cho các dự án mới. Đồng thời cải tiến, nâng cấp các dự án đang vận hành, đầu tư các thiết bị bảo vệ môi trường. “Trong quá trình khai thác, cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình vận hành, từng bước đầu tư, xây dựng năng lượng tái tạo với lộ trình thích hợp cũng như tiếp tục triển khai sâu rộng chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghiệp tiêu thụ ít năng lượng”…
 
Tại Hội thảo, ông Hoàng Quốc Vượng – Thứ trưởng Bộ Công thương khẳng định, trong giai đoạn 2016-2030, dự báo tốc độ tăng trưởng GDP với kịch bản cơ sở là bình quân 7,0%/năm tương ứng với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc ở phương án cơ sở ở giai đoạn 2016-2020, 2021-2025 và 2026-2030 là 10,6%, 8,5% và 7,5%. Hiện nay, tiềm năng về năng lượng sơ cấp trong nước cho sản xuất điện bao gồm các nguồn chính là thủy điện, nhiệt điện than, khí và năng lượng tái tạo. Trong đó, đối với nguồn thủy điện: về cơ bản thủy điện vừa và lớn đã được khai thác hết, tổng công suất đưa vào cân đối khoảng  20.000 MW, điện sản xuất trên 70 tỷ kWh. Từ sau năm 2020 sẽ tiếp tục phát triển và khai thác các dự án thủy điện nhỏ ít tác động tới môi trường.
 
Về nguồn than, theo Quy hoạch ngành than, tổng nguồn than trong nước cho điện có thể đưa vào cân đối trong dài hạn khoảng 45 - 50 triệu tấn, đủ cấp cho khoảng 15.000 MW với sản lượng điện trên dưới 88 tỷ kWh. Từ năm 2017 dự kiến nhập than, lượng than nhập khoảng 85 triệu tấn vào năm 2030. Đối với nguồn khí, sau năm 2023 dự kiến sẽ nhập khẩu LNG để bổ sung khí cho các nhà máy tua bin khí cụm Phú Mỹ, Bà Rịa, Nhơn Trạch khi khí từ mỏ Nam Côn Sơn suy giảm. Các nguồn khí mỏ Lô B dự kiến được khai thác vào năm 2020, nguồn khí mỏ Cá Voi Xanh dự kiến khai thác năm 2023, có thể kéo dài đến 2045 - 2048. Tổng công suất nhiệt điện khí (dùng khí đốt trong nước) đưa vào cân đối trong dài hạn chỉ dừng ở mức trên 12.000 MW với sản lượng điện khoảng 63 tỷ kWh.
 
Nguồn năng lượng tái tạo gồm: thủy điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối đạt khoảng 27.200 MW với tỷ trọng 21% vào năm 2030.
 
Trên cơ sở cân đối nhu cầu điện và tiềm năng năng lượng sơ cấp trong giai đoạn này, Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2016 (QHĐ7). Theo đó, dự báo nhu cầu Điện thương phẩm các năm 2020, 2025, 2030 tương ứng là 235 tỷ kWh, 352 tỷ kWh và 506 tỷ kWh. Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc theo từng giai đoạn: 10,6%/năm (2016 - 2020), 8,5%/năm (2021 - 2025) và 7,5%/năm (2026 - 2030). Công suất cực đại của hệ thống (Pmax) năm 2020, 2025 và 2030 tương ứng là 42.080 MW, 63.470 MW và 90.650 MW.
 
Nhiệt điện than đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2020 tổng công suất nhiệt điện than khoảng 26.000 MW chiếm 49,3% điện SX; năm 2025 đạt khoảng 47.600 MW, chiếm 55% điện sản xuất; năm 2030 đạt 55.300MW chiếm 53,2% điện sản xuất.
 
Đánh giá về công tác bảo vệ môi trường đặc biệt là tại các nhà máy nhiệt điện than hiện nay, Thứ trưởng Bộ Công Thương - ông Hoàng Quốc Vượng cho rằng, trước những thông tin phản ánh về công nghệ nhiệt điện và môi trường, với trách nhiệm cao đối với việc đảm bảo cung cấp điện và bảo vệ môi trường, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã có Chỉ thị số 11/CT-BCT ngày 19/10/2016 về việc tăng cường công tác bảo vệ môi trường ngành Công Thương nói chung, các nhà máy nhiệt điện nói riêng. Bộ Công Thương tổ chức Hội thảo này để các nhà khoa học, các nhà quản lý, chủ đầu tư… trao đổi, có đánh giá đầy đủ về lĩnh vực này, từ đó đề ra các biện pháp đảm bảo vận hành, xây dựng các nhà máy nhiệt điện cung cấp đủ điện cho đất nước và bảo vệ môi trường..

  • 09/11/2016 09:33
  • http://icon.com.vn