Công nhân Công ty Điện lực An Giang đi sửa chữa điện cho các hộ dân trên địa bàn. Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
Một trong những nhiệm vụ quan trọng lúc bấy giờ là quản lý và vận hành tốt toàn bộ cơ sở vật chất và kỹ thuật ngành Điện vừa tiếp quản từ tay chính quyền cũ, bằng mọi cách giữ dòng điện hoạt động liên tục phục vụ cuộc sống và sinh hoạt của người dân thành phố.
Thời điểm ấy, công suất lắp đặt của hệ thống điện miền Nam chỉ có 800MW, chiếm 60,6% công suất lắp đặt của cả nước; tổng sản lượng điện thương phẩm đạt gần 1,3 tỷ kWh, chiếm tỉ trọng 48,5%. Số hộ dân nông thôn có điện mới đạt khoảng 2,5%. Hoạt động của ngành Điện phía Nam lúc bấy giờ vô cùng khó khăn do tình trạng nguồn và lưới điện còn rất chắp vá, lạc hậu.
Trong khi đó, các nhà máy phát điện hoạt động trong tình trạng thiếu dầu, các linh kiện thiết bị, phụ tùng hư hỏng không có dự phòng để thay thế… Tại Sài Gòn chỉ có Nhà máy điện Thủ Đức, Nhà máy điện Chợ Quán và các cụm diesel cung cấp điện chủ yếu cho Sài Gòn và các vùng phụ cận. Tại Cần Thơ có Nhà máy điện Trà Nóc vừa xây dựng xong, cung cấp điện cho Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Sa Đéc và Vĩnh Long.
Trên Cao nguyên, Nhà máy thủy điện Đa Nhim cung cấp điện cho Đà Lạt, Tháp Chàm và Cam Ranh nhưng bị hư hỏng đường ống thủy áp không vận hành được. Đường dây 230kV Đa Nhim - Sài Gòn thì bị đứt, nhiều cột bị đổ, sứ bị nứt vỡ. Việc khôi phục Nhà máy thủy điện Đa Nhim và đường dây cao áp gặp rất nhiều khó khăn về kỹ thuật, lại diễn ra trên địa bàn rừng núi, điều kiện an ninh không tốt và đời sống vật chất rất khó khăn. Còn các tỉnh khác được cung cấp điện từ các máy diesel độc lập.
Đối với lưới điện trong khu vực các tỉnh miền Nam chưa hình thành xong. Nhiều vùng chưa hề có điện. Hoạt động sản xuất, phân phối điện còn manh mún, chắp vá. Lưới truyền tải 230kV, 66kV vận hành độc lập theo các vùng miền Đông, miền Tây và Cao nguyên. Lưới điện phân phối tập trung chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh và điện được cung cấp qua lưới 66kV bao quanh thành phố. Ở nông thôn hầu như chưa có điện, việc phát triển lưới điện để cấp điện cho nông thôn chỉ bắt đầu sau năm 1975 và lúc đầu cũng chủ yếu là phục vụ bơm tưới tiêu.
Từ tháng 8/1975, ngành điện miền Nam đã liên tục đổi tên từ Tổng cục Điện lực, Công ty Điện lực miền Nam, Công ty Điện lực 2 và đến nay là Tổng công ty Điện lực miền Nam, phạm vi hoạt động ở 21 tỉnh thành phía Nam (trừ TP. Hồ Chí Minh).
Có thể nhìn nhận hơn 40 năm xây dựng và phát triển của ngành điện miền Nam được trải qua hai giai đoạn chính; trong đó, giai đoạn 1975-1995 nhiệm vụ là sản xuất, truyền tải, phân phối và kinh doanh điện, phát triển nguồn và lưới điện để cung cấp điện an toàn và liên tục cho miền Nam, trọng điểm là TP. Hồ Chí Minh, phục vụ công cuộc cải tạo, xây dựng xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa ở miền Nam.
Giai đoạn 1995-2015, sau khi các đơn vị Truyền tải, Nhà máy điện, Tư vấn thiết kế… và phân phối điện ở khu vực TP. Hồ Chí Minh tách ra, phạm vi hoạt động của Tổng công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC) bao gồm quản lý các nhà máy thủy điện nhỏ, các cụm diesel phát điện, lưới điện đến cấp 110kV và kinh doanh bán điện ở 21 tỉnh thành phía Nam (từ Ninh Thuận đến Cà Mau).
Trong giai đoạn này, Tổng công ty đã đảm bảo cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống của nhân dân, góp phần duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế của các tỉnh thành phía Nam ở mức cao nhiều năm liên tục với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm bình quân hàng năm là 18,37%/năm. Mức sử dụng điện bình quân đạt 1.600kWh/người/năm, tăng gần 18 lần so với năm 1995.
Có được kết quả này, theo ông Nguyễn Văn Hợp, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc EVNSPC nhờ nhờ đơn vị tập trung các nguồn lực vào đầu tư, phát triển lưới điện để đáp ứng tốc độ tăng trưởng cao về nhu cầu điện của các địa phương. Hàng năm trung bình Tổng công ty đầu tư hàng ngàn tỷ đồng cho phát triển và cải tạo lưới điện. Đến nay, quy mô lưới điện miền Nam đã có 4.687 km đường dây và 172 trạm 110kV với tổng công suất 10.462 MVA, 52.467km đường dây trung thế và 141.954 trạm 22kV, tổng công suất 23.356 MVA, 71.665km hạ thế; cấp điện đến 6,5 triệu khách hàng. Tổng số hộ được cấp điện là 7,3 triệu, đạt 98,49%. Tổng số hộ dân nông thôn được cấp điện tăng lên 4,94 triệu, đạt 97,92%; trong đó ngành Điện đã quản lý bán điện đến 100% số huyện và xã trên đất liền và hải đảo.
Bên cạnh việc đảm bảo điện cho các khu công nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, những dự án cung cấp điện khu vực nông thôn đã làm thay đổi cơ bản đời sống nông thôn-nông dân: Nhờ có điện, sản xuất lúa và rau màu đã chủ động về tưới, tiêu và giảm chi phí, khắp các địa phương đã mở rộng nuôi trồng thủy hải sản, phát triển thêm nhiều làng nghề thủ công, các cụm công nghiệp nhỏ, ngành nghề dịch vụ tại chỗ. Cùng với việc tiếp nhận quản lý điện ở Côn Đảo, Tổng công ty đã đưa lưới điện quốc gia vượt biển ra các huyện đảo Phú Quốc, Kiên Hải. Nguồn điện ổn định đã tạo tiền đề quan trọng để các huyện đảo có điều kiện thuận lợi đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nhanh về kinh tế và mạnh về quốc phòng an ninh.
Một trong những yếu tố quyết định đến quá trình phát triển của ngành điện miền Nam chính là Tổng công ty đã mạnh dạn đổi mới công tác quản trị điều hành, chăm lo đào tạo bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ, bồi dưỡng, đào tạo trình độ về mọi mặt cho CBCNV. Từ đó khắc phục các biểu hiện quan liêu, cửa quyền, xây dựng tác phong làm việc chuyên nghiệp, tận tụy thân thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu về điện của khách hàng, góp phần phấn đấu đưa ngành Điện trở thành ngành cung ứng các dịch vụ chất lượng, đáng tin cậy của nhân dân và xã hội.
Tổng công ty còn là đơn vị đi đầu trong ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và bảo vệ môi trường, như: Hệ thống đo ghi từ xa kết hợp phát triển cơ sở dữ liệu và phần mềm quản lý thông số thu thập từ xa; hệ thống SCADA và trạm biến áp 110kV không người trực và nhiều đề tài nghiên cứu khoa học ứng dụng rộng rãi trong thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
5 năm qua, toàn Tổng công ty có trên 850 đề tài, sáng kiến được áp dụng vào thực tiễn, nâng cao năng suất, hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm lợi hàng trăm tỷ đồng. Điển hình là đề án xây dựng lưới điện thông minh, hệ thống đo đếm PLC ghi chỉ số từ xa, Phòng giao dịch khách hàng kiểu mẫu, hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến, thông tin dịch vụ khách hàng qua web; nghiên cứu khoa học “Xây dựng lộ trình thực hiện chỉ tiêu tổn thất điện năng 2011-2015 và dự kiến đến năm 2020….
Năm 2016, EVNSPC đặt mục tiêu thực hiện gần 54,7 tỷ kWh điện thương phẩm, tăng 10,65% so với thực hiện năm 2015. Đồng thời thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng với tổng giá trị là 6.552 tỷ đồng. Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu cấp điện cho các huyện đảo và an sinh xã hội, quốc phòng Tổng công ty đã triển khai các dự án trọng điểm như Dự án cấp điện cho xã đảo Lại Sơn để cung cấp cho 1.956 hộ dân trên đảo, hoàn thành trong tháng 8/2016. Dự án cấp điện cho xã đảo Hòn Nghệ tỉnh Kiên Giang xây dựng đường dây 22 kV trên biển và đường dây trung thế 22 kV vượt biển, hoàn thành vào Quý III/2016. Dự án cung cấp điện cho các hộ dân chưa có điện, chủ yếu là đồng bào Khmer tỉnh Kiên Giang – giai đoạn 2 cấp điện cho 6.131 hộ dân chưa có điện trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, dự kiến hoàn tất trong năm 2016.