Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
Chính vì vậy, tìm kiếm công nghệ và giải pháp môi trường để giải quyết vấn đề phát thải như tro, xỉ của các nhà máy nhiệt điện than được quan tâm hàng đầu.
Giải pháp môi trường
Cơ cấu nguồn điện của Việt Nam hiện có thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, điện gió, điện mặt trời… Hiện nay, nguồn thủy điện đã khai thác gần hết, chỉ còn một số dự án mở rộng và các công trình thủy điện vừa và nhỏ có công suất dưới 30 MW. Từ nay đến năm 2030, Việt Nam chưa có điện hạt nhân, nên phải xây dựng một số nhà máy nhiệt điện than để nâng công suất nguồn, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Như vậy, để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng về sử dụng điện chỉ còn 2 con đường: Thứ nhất, chấp nhận phát triển nhiệt điện than và thứ hai nhập khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) để chạy tuabin khí. Tuy nhiên, việc nhập khí LNG để phát triển điện thường dành cho các nước phát triển vì giá thành sản xuất điện cao... Nếu cân đối giá điện, công nghệ đầu tư xây dựng, sự ổn định trong vận hành và cả chế độ chạy nền, chạy lưng, chạy đáy thì nhiệt điện than đều đáp ứng được. Trên thực tế, để đáp ứng nhu cầu phụ tải ngày càng tăng cao ở miền Nam phải dựa vào nhiệt điện than và LNG. Cả hai nguồn điện này đã và đang được vận hành song song, nhằm đa dạng hóa các nguồn năng lượng, hạn chế rủi ro cho hệ thống điện.
Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
Bên cạnh những đóng góp cho phát triển kinh tế, quá trình vận hành nhà máy nhiệt điện than đang tác động nhất định tới môi trường sinh thái. Chính vì vậy, khi phát triển nhiệt điện than, EVN đặc biệt quan tâm và thực hiện nghiêm các giải pháp bảo vệ môi trường, như: tuân thủ đầy đủ cam kết về quan trắc và giám sát môi trường đã được phê duyệt trong ĐTM; xây dựng lộ trình cải tạo hệ thống đốt khởi động lò, để có thể đưa hệ thống lọc bụi tĩnh điện vào ngay khi bắt đầu khởi động. Khi chưa cải tạo, khắc phục được thì các nhà máy phải phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để thông báo rộng rãi cho người dân biết về quá trình nhà máy khởi động lò để người dân tham gia giám sát; chủ động tìm kiếm các giải pháp để xử lý và tiêu thụ nguồn phát sinh chất thải tro xỉ; tăng cường hoạt động giám sát, quan trắc và thông tin QLNN về môi trường và để nhân dân được biết; tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân giám sát. Đối với nước thải của nhà máy nhiệt điện, lắp đặt hệ thống giám sát các thông số nước thải online, kết nối với Sở TN&MT để tạo thuận lợi cho các cơ quan giám sát các thông số môi trường.
Phương thức thải xỉ khô mà EVN đang thực hiện được đánh giá là một trong những biện pháp tiết kiệm tài nguyên nước và năng lượng so với phương pháp thải xỉ ướt và là một giải pháp để thúc đẩy quá trình tái sử dụng tro, xỉ. Hiện nay, các nhà máy nhiệt điện than của EVN đều sử dụng hệ thống thiết bị lọc bụi tĩnh điện hiệu suất cao. Quy trình xử lý bụi và khí thải là quy trình đầy đủ, phổ biến hiện nay của các nhà máy nhiệt điện đốt than trên thế giới. Hệ thống xử lý nước thải công nghiệp đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Nước làm mát tuần hoàn tại điểm đầu ra kênh thải luôn thấp hơn 40 độ C theo quy định. Các nhà máy nhiệt điện than tại khu vực phía Bắc (Phả Lại, Uông Bí, Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Nghi Sơn 1) đều đã có hợp đồng với đơn vị tiêu thụ tro, xỉ… Tại miền Nam, nhiệt điện Vĩnh Tân 2 đã ký hợp đồng với Công ty CP Đầu tư Mãi Xanh bao tiêu toàn bộ lượng tro xỉ của nhà máy trong toàn đời dự án để sản xuất vật liệu xây dựng, gạch không nung, kết cấu bê tông lấn biển… và xuất thành phẩm qua cảng Vĩnh Tân.
Tìm kiếm công nghệ
Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
Cuối tháng 4 vừa qua, Tổng cục Năng lượng - Bộ Công Thương phối hợp với Trung tâm Năng lượng Than Nhật Bản (JCOAL) tổ chức Đối thoại chính sách than và Hội thảo Công nghệ than sạch về Công nghệ phát điện hiệu suất cao ít phát thải (HELE) trong khuôn khổ hợp tác song phương Việt Nam – Nhật Bản năm 2017 tại Việt Nam. Đây là chương trình đối thoại thường niên giữa 2 chính phủ do Tổng cục Năng lượng, Bộ Công Thương và Ban Than, Bộ Kinh tế, Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản (METI).
Trong Đối thoại lần thứ 5 này, 2 bên đã cập nhật những chính sách mới nhất về kế hoạch phát triển nguồn điện, đặc biệt là nhiệt điện đốt than từ đó đưa ra những vấn đề cần quan tâm hợp tác trong việc phát triển xây dựng các nhà máy điện than công nghệ hiệu suất cao và ít phát thải, trên cơ sở 2 bên nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc phát triển nhiệt điện than ở VN và cần quan tâm đến vấn đề môi trường.
Đại diện phía Nhật Bản, Ban Than Bộ METI cho biết, dù các nước Âu Mỹ đang gặp khó khăn trong việc phát triển điện than do yêu cầu cắt giảm CO2 cũng như sự giảm giá khí gas, do ngừng hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế, nhưng trong kế hoạch phát triển năng lượng của Nhật Bản đến 2030 nhiệt điện than vẫn chiếm một thị phần nhất định. Chính vì vậy Nhật Bản vẫn tiếp tục nghiên cứu phát triển các công nghệ hiệu suất cao ít phát thải. Bộ METI cũng đề nghị Việt Nam tận dụng những công nghệ thân thiện môi trường này của Nhật Bản.
Để triển khai cụ thể các nội dung hợp tác về nhiệt điện than, Bộ METI đề xuất thành lập các tổ công tác (Worrking Goup) trao đổi chi tiết hơn nữa, thúc đẩy các nội dung liên quan đến công nghệ phát điện hiệu suất cao ít phát thải, giải pháp môi trường và điều phối – vận chuyển – xử lý than cho điện. Nhật Bản mong muốn được thực hiện hợp tác xây dựng một nhà máy nhiệt điện than điển hình về môi trường ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam và Nhật Bản triển khai nhiều hoạt động hợp tác trong lĩnh vực than từ khai thác, chế biến đến sử dụng nguồn tài nguyên này. Đặc biệt, hiện nay Nhật Bản đang tích cực hỗ trợ Việt Nam nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong sử dụng than như công nghệ đốt than phối trộn, kỹ thuật phát điện hiệu suất cao và phát thải thấp, các công nghệ môi trường cũng như kinh nghiệm về vận hành, bảo dưỡng nhà máy nhiệt điện, xử lý tro xỉ… Các hoạt động hợp tác, hỗ trợ như vậy là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng gia tăng, sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái.
Theo kế hoạch, những năm sắp tới của Việt Nam, các nhà máy nhiệt điện đốt than vẫn đóng một vai trò đáng kể trong cấu phần nguồn cung cấp điện năng. Vấn đề đặt ra là, việc đáp ứng nhu cầu điện năng ngày càng tăng nhằm phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế xã hội phải được gắn kết đồng bộ với việc phát triển bền vững, đảm bảo môi trường sinh thái và ứng phó biến đổi khí hậu.
Kết quả của Đối thoại chính sách và Hội thảo lần này sẽ được đưa vào chương trình nghị sự của cuộc họp Ủy ban hỗn hợp Việt Nam- Nhật Bản dự kiến diễn ra vào tháng 5-2017.
Theo Quy hoạch phát triển điện lưới quốc gia năm 2011 – 2020 có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII), giai đoạn 2025 - 2030, các tỉnh phía Nam cần bổ sung khoảng 30.000 MW nguồn điện tại chỗ mới đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế. Cũng theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2020 sẽ có 32 nhà máy, tổng công suất nhiệt điện than khoảng 26.000 MW chiếm 49,3% lượng điện sản xuất; năm 2025 đạt khoảng 47.600 MW, chiếm 55% điện sản xuất; năm 2030 đạt 55.300 MW chiếm 53,2% điện sản xuất.
|