Phát triển điện khí, điện gió ngoài khơi: Cần cơ chế chính sách đặc thù

Điện khí và điện gió ngoài khơi là hai nguồn điện rất quan trọng trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia cũng như quá trình chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam. Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII), từ nay đến năm 2030, điện khí và điện gió ngoài khơi chiếm tới khoảng 50% tổng công suất nguồn điện cần bổ sung. Việc phải tăng nhanh về quy mô cũng như đáp ứng tiến độ đưa các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi vào vận hành trước năm 2030 là thách thức lớn.

Thách thức lớn về tiến độ

Trong bối cảnh thủy điện cơ bản hết dư địa phát triển; nhiệt điện than không được phát triển thêm sau năm 2030 theo cam kết quốc tế, việc bảo đảm cung ứng điện và an ninh năng lượng quốc gia là thách thức rất lớn. Việc đẩy nhanh các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia; đồng thời góp phần giúp Việt Nam thực hiện được cam kết trung hoà carbon vào năm 2050.

Phát triển điện khí là phù hợp với chủ trương của Việt Nam trong Quy hoạch điện VIII để bảo đảm cung cấp điện cho hệ thống và giảm phát thải khí nhà kính ra môi trường, bù đắp thiếu hụt năng lượng cho hệ thống và bảo đảm đa dạng nguồn cung cấp nhiên liệu. Đồng thời, đây là nguồn dự phòng khi tỷ trọng của các nguồn điện năng lượng tái tạo tăng cao trong cơ cấu nguồn, bảo đảm ổn định cung cấp điện cho hệ thống. Trong khi đó, điện gió ngoài khơi, được đánh giá là nguồn năng lượng tái tạo có khả năng chạy phụ tải nền cho hệ thống.

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đường bờ biển trải dài 3.260km với 28 tỉnh, thành phố ven biển, vì vậy tiềm năng phát triển năng lượng gió tại Việt Nam vô cùng lớn. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là nước có tiềm năng năng lượng gió lớn nhất trong 4 nước của khu vực là Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, với hơn 39% tổng diện tích của Việt Nam được ước tính là có tốc độ gió trung bình hằng năm lớn hơn 6m/s ở độ cao 65m, tương đương công suất khoảng 512.000MW.

Điện gió ngoài khơi sẽ tạo ra năng lượng tái tạo lớn và ổn định. Ảnh: vneconomy.vn 

Theo Quy hoạch điện VIII, từ nay đến năm 2030, tổng công suất đặt các nguồn điện đến năm 2030 là 150.489MW (gần gấp đôi tổng công suất đặt hiện nay, khoảng 80.000MW). Trong đó, tổng công suất nguồn điện bổ sung từ các dự án điện khí (30.424MW) và điện gió ngoài khơi (6.000MW) chiếm khoảng 50% tổng công suất điện cần bổ sung.

Có thể thấy, nguồn điện khí, điện gió ngoài khơi được quy hoạch phát triển với quy mô lớn, tuy nhiên hai loại hình nguồn điện này chưa có kinh nghiệm phát triển ở Việt Nam. Theo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương, để triển khai một dự án điện khí từ khi dự án được phê duyệt quy hoạch đến khi vào vận hành cần khoảng thời gian 7-8 năm. Đối với dự án điện gió ngoài khơi, thời gian thực hiện cần khoảng 6-8 năm kể từ lúc khảo sát. “Việc triển khai các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi để đáp ứng tiến độ đưa vào vận hành trước năm 2030 là thách thức không hề nhỏ”, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Cần Quốc hội ban hành nghị quyết riêng?

Nêu một số khó khăn cụ thể, Tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) Phạm Văn Phong cho biết: Hiện chúng ta chưa có chính sách về tài chính, cơ chế bao tiêu sản lượng điện khí, cơ chế chuyển ngang giá khí sang giá điện... Điều đó đã khiến các dự án đầu tư không xác định được khả năng thu hồi vốn, thu xếp vốn, không xác định được lượng khí thiên nhiên hóa lỏng cần nhập khẩu bao nhiêu để bảo đảm mức giá khí cạnh tranh trong ký kết hợp đồng nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng cho sản xuất điện. Tất cả vướng mắc trên đã tạo ra nguy cơ chậm tiến độ của các dự án điện khí.

Đối với các dự án điện gió ngoài khơi, theo các chuyên gia, do tính chất đặc thù về kỹ thuật và công nghệ, quy mô đầu tư lớn (khoảng 2-3 triệu USD/MW), quy trình và thủ tục đầu tư phức tạp, việc hiện thực hóa mục tiêu đặt ra trong Quy hoạch điện VIII đối với điện gió ngoài khơi cũng là thách thức rất lớn. Thêm vào đó, đến nay, Quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được phê duyệt nên chưa có cơ sở triển khai thực hiện Quy hoạch điện lực; thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư; điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi.

“Đối với điện gió ngoài khơi, do tương đồng với các hoạt động dầu khí nên được các nước trên thế giới gắn với hoạt động của dầu khí ngoài khơi, như: Khảo sát đáy biển, điều tra thực địa... và điều này Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) hoàn toàn làm được. Vấn đề là do thiếu các cơ chế, chính sách cho điện khí, điện gió ngoài khơi nên rủi ro rất cao cho nhà đầu tư”, Chủ tịch HĐTV PVN Lê Mạnh Hùng cho biết.

Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, những vướng mắc của các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi đều cần phải được xem xét, giải quyết khẩn trương, đồng bộ từ chủ trương đến cơ chế chính sách. Muốn giải quyết được những vấn đề này, cần sớm báo cáo Chính phủ để kiến nghị với Quốc hội có nghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù cho việc triển khai các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi, đáp ứng tiến độ theo Quy hoạch điện VIII. Riêng dự án điện gió ngoài khơi cần đưa vào danh mục dự án quan trọng quốc gia được áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt.

Đề xuất thêm, ông Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam cho rằng, cần có nghị quyết của Quốc hội cho phép Chính phủ, các bộ, ngành và các doanh nghiệp được triển khai song song với quá trình hoàn thiện các khung khổ pháp lý. Còn theo ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, trong vấn đề phát triển điện khí cần đặc biệt quan tâm đến các vấn đề như công tác quy hoạch, huy động nguồn lực, cơ chế giá, giải phóng mặt bằng; các giải pháp bảo đảm phát triển hạ tầng điện khí; bảo đảm chuỗi cung ứng cho sản xuất điện khí (trong nước và nhập khẩu)...

  • 15/03/2024 10:41
  • EVN